Gia chánh

Saturday, January 2, 2016

Đầu năm, chuyển biến mới. Việt Nam gửi công hàm về Biển Đông lên Liên Hợp Quốc

Thứ sáu, 01/01/2016
(Thời sự) - Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hợp Quốc đã gửi công hàm để phản đối tuyên bố chủ quyền sai trái và những hành động của Trung Quốc ở Biển Đông.
Một phiên họp của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Ảnh: Reuters
Một phiên họp của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Ảnh: Reuters


Việt Nam gửi công hàm về Biển Đông lên Liên Hợp Quốc
Thứ sáu, 01/01/2016
(Thời sự) - Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hợp Quốc đã gửi công hàm để phản đối tuyên bố chủ quyền sai trái và những hành động của Trung Quốc ở Biển Đông.


Một phiên họp của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Ảnh: Reuters
Một phiên họp của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Ảnh: Reuters
Trong công hàm số 344/HC-2015 đề ngày 29/12/2015, Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hợp Quốc nêu rõ rằng Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo Công ước Liên Hợp Quốc và luật Biển 1982.
Công hàm nhắc lại rằng Việt Nam cương quyết bác bỏ những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo ở Biển Đông, cũng như lập luận của Trung Quốc rằng chủ quyền và những quyền liên quan của Trung Quốc ở Biển Đông đã hình thành từ rất lâu trong lịch sử. Việt Nam phản đối những hoạt động tôn tạo, xây dựng mà Bắc Kinh đang thực hiện đối với các đảo trong Biển Đông.
“Những lời tuyên bố và khẳng định của Trung Quốc không hề có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tế”, công hàm nhấn mạnh.
Nội dung công hàm cũng khẳng định rằng Việt Nam, với tư cách là một quốc gia ven biển và tham gia Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, bảo lưu mọi quyền và lợi ích hợp pháp ở Biển Đông theo luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982.
posterbiendao612
Việt Nam cương quyết bác bỏ những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo ở Biển Đông, cũng như lập luận của Trung Quốc rằng chủ quyền và những quyền liên quan của Trung Quốc ở Biển Đông đã hình thành từ rất lâu trong lịch sử. Việt Nam phản đối những hoạt động tôn tạo, xây dựng mà Bắc Kinh đang thực hiện đối với các đảo trong Biển Đông.
Bộ Ngoại giao Việt Nam từng nhiều lần phản đối những hành động ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông. Hôm 8/5/2015, ông Lê Hải Bình, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, nói: “Những hoạt động tôn tạo, mở rộng đảo, đá mà Trung Quốc đang tiến hành đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông, gây lo ngại sâu sắc trong cộng đồng quốc tế, bao gồm ASEAN”.
Sau khi Trung Quốc thông báo họ sắp hoàn tất quá trình bồi lấp các đảo, bãi đá ở Biển Đông, ngày 25/6/2015, ông Lê Hải Bình nêu rõ: “Những hoạt động xây dựng, mở rộng đảo, đá quy mô lớn của Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa là bất hợp pháp; không thay đổi được thực tế là Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Trường Sa.
Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hoạt động này, tôn trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa; nghiêm túc tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 cũng như Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), không có những hành động làm phức tạp tình hình, thay đổi nguyên trạng ở Biển Đông.”
Năm 2014, Trung Quốc bắt đầu thực hiện chiến dịch bồi đắp quy mô lớn ở ba bãi đá, bãi cát chính thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam – gồm Chữ Thập, Vành Khăn và Xu Bi. Bắc Kinh cho cải tạo một khu vực có diện tích 8 km2 – tương đương 90 sân bóng – trong chưa đầy hai năm.
Hồi tháng 9/2015, trong chuyến thăm Mỹ, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tuyên bố Bắc Kinh sẽ không quân sự hóa các đảo ở Biển Đông. Song nhiều ảnh từ vệ tinh cho thấy họ đang xây ba đường băng có khả năng phục vụ cả phi cơ ném bom trên những đảo nhân tạo bồi lấp trái phép. Quy mô và tốc độ bồi đắp đảo của Trung Quốc ở Trường Sa khiến những nước có lợi ích ở Biển Đông lo lắng.
Bắc Kinh từng thông báo hồi tháng 6/2015 rằng quá trình tạo đảo (bằng cách đưa trầm tích từ đáy biển lên bãi đá) sẽ sớm kết thúc. Từ đó tới nay, Trung Quốc tập trung vào xây dựng các công trình. Họ đã xây cảng, các tòa nhà quân sự, sân bay trên vài đảo. Một số ảnh gần đây cho thấy Bắc Kinh đang xây thêm hai đường băng, New York Times nhận định.
Dù các đảo nhân tạo không đủ lớn để các đơn vị quân đội lớn có thể đồn trú, chúng sẽ vẫn cho phép Trung Quốc tuần tra trên biển và trên không ở Biển Đông. Giới chức Mỹ từng thông báo họ phát hiện Trung Quốc đưa các cỗ pháo cơ động tới những đảo này. Nhóm đảo nhân tạo cũng cho phép Trung Quốc tăng mức độ kiểm soát đối với hoạt động khai thác hải sản ở Biển Đông.
Các phương tiện của Trung Quốc phá nhiều bãi đá để làm nền cho những đảo mới. Quá trình phá các bãi đá gây thiệt hại lớn đối với hệ sinh thái biển quanh nhóm đảo. Frank Muller-Karger, giáo sư bộ môn Sinh học hải dương của Đại học South Florida ở Mỹ, giải thích rằng trầm tích có thể lắng trở lại đáy biển, tạo nên những cột bụi có khả năng gây nên tác động xấu đối với sinh vật biển. Trầm tích cũng có thể mang theo kim loại nặng, dầu và các loại hóa chất khác từ các tàu và những công trình mà Bắc Kinh xây trên đảo. Những cột trầm tích dưới biển đe dọa những bãi đá có mức độ đa dạng sinh học cao thuộc quần đảo Trường Sa.
nguồn: nguyentandung.org

TPP và diễn biến dân chủ hóa Việt Nam
© Đỗ Thái Nhiên

TPP-map

Ngày 12 tháng 11 năm 2015, Văn Phòng Đại Diện Thương Mãi Hoa Kỳ đã công bố văn bản Hiệp Định TPP (Trans-Pacific Strategic  Economic Partnership Agreement-viết tắt TPP) Hiệp định này hình thành bởi mười hai quốc gia: Malaysia, Singapore, Brunei, Nhật Bản, Úc, Tân Tây Lan, Chile, Peru, Mexico, Canada, Việt Nam và Hoa Kỳ. TPP bao gồm 30 chương và những thỏa thuân riêng giữa các quốc gia trong TPP. Đây là một hiệp định rất lớn và rất mới của thế kỷ 21. Bài viết này diễn tả mối quan hệ giữa TPP và diễn biến dân chủ hóa Việt Nam theo bốn tiết mục sau đây:
1) Bản thể của TPP: TPP là gì ?
2) Nhận thức của TPP: TPP ra đời bởi những nhận định nào?
3) Phương pháp luận của TPP: Bằng cách nào con người có thể biến cam kết TPP
thành hành động cụ thể?
4) TPP và diễn biến dân chủ hóa Việt Nam

A. BẢN THỂ CỦA TPP
Ngày 20 tháng 5, năm 2015, trước đông đảo công nhân tại nhà máy Boeing thuộc tiểu bang Washington, nhận xét về TPP, ông John Kerry, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, tuyên bố:
“TPP không phải là thỏa thuận thương mãi kiểu thời ông bà chúng ta. Nó không phải là hiệp định thương mãi thời cha mẹ chúng ta. Thậm chí cũng không phải là hiệp định thương mãi thời anh chị chúng ta. Đây là một thực thể mới, rất mới, và cuối cùng đây là một hiệp định của thế kỷ thứ 21.”
Do đâu TPP có được danh hiệu “Hiệp định của thế kỷ thứ 21” ?
Ngày 24/02/1848 bằng vào “Tuyên Ngôn Của Đảng Cộng Sản”, Karl Marx mạnh mẽ xác quyết cá nhân giàu bóc lột cá nhân nghèo là đại họa của loài người.
Năm 1958, học giả Tibor Mende hoàn tất tác phẩm “Entre La Peur Et L’Espoir” (Paris, Editions du Seuil, 1958. Dịch giả Tam Ích(XXX) “Nên Kinh Sợ Hay Nên Hy Vọng”, Phủ Quốc Vụ Khanh/ĐTVH xb 1972, Saigon). Tibor Mende là tác giả đầu tiên nêu bật tư tưởng: Tình trạng chênh lệch trầm trọng về mức sống giữa quốc gia giàu và quốc gia nghèo mới chính là nỗi lo sợ của thế giới.
Tháng 11, năm 2015, mười hai quốc gia trong TPP đã đồng thuận trên quan điểm rằng:
Tại quốc gia nghèo:
1) Giá phí tổn sản xuất, nhất là công thợ, rất thấp,
2) Mặt hàng thương mãi nghèo nàn cả về phẩm lẫn lượng,
3) Mãi lực của giới tiêu thụ cực kỳ yếu kém.
Ba yếu tố trọng tâm vừa nêu làm cho giao dịch thương mãi giữa quốc gia nghèo (đa số) và quốc gia giàu ngày càng khô héo và bế tắc. Muốn cho hàng hóa lưu thông đều đặn  và phong phú trên khắp thế giới, con người cần phải thâu ngắn khoảng cách về mức sống giữa quốc gia giàu và quốc gia nghèo. Thâu ngắn ở đây xin được hiểu là toàn cầu hóa, công bằng hóa không chỉ riêng kinh tế-thương mãi mà còn phải hợp lý hóa toàn bộ đời sống của loài người trên mọi lãnh vực.
Đó là sử quan, là động lực hối thúc lịch sử chuyển động.
Đó chính là bản thể của TPP.

B. NHẬN THỨC CỦA TPP
Nhận thức của TPP là công việc khảo sát về các mối liên hệ giữa những suy nghĩ của con người  và sự ra đời của TPP. Với chủ đề “Diễn biến dân chủ hóa Việt Nam”, bài viết này xin giới hạn tiết mục nhận thức của TPP trong câu hỏi: do những mong muốn gì Hoa Kỳ và CSVN gặp nhau trong TPP?
1) Hoa Kỳ muốn gì? Hoa Kỳ có (4) điều muốn:
a) TPP thương mãi công bằng: Toàn cầu hóa đời sống của thế giới. Thâu ngắn khoảng cách về mức sống giữa quốc gia nghèo và quốc gia giàu. Từ đó, hàng hóa của Hoa Kỳ cũng như của các quốc gia thành viên TPP lưu thông dễ dàng và phong phú trên khắp thế giới. Nâng mức sống của các xã hội tức là nâng đồng bộ đời sống vật chất (kinh tế) lẫn đời sống tinh thần (nhân quyền). Tinh thần và vật chất là hai mặt không thể tách rời của một bàn tay. Nâng mức sống như vừa kể chính là đề cao tính công bằng trong hoạt động thương mãi của xã hội quốc tế. Nhớ rằng công bằng là thành tố trội yếu của nhân quyền.
b) TPP: tôn trọng nhân quyền là kỹ thuật xây dựng thương mãi thịnh vượng.
Thực hiện chi tiết và tích cực điều muốn (a) nói ở trên, nhân quyền sẽ được tôn trọng toàn phần. Nhân quyền không còn là ý niệm của đạo đức chính trị. Nhân quyền hiển nhiên trở thành công cụ xây dựng guồng máy kinh tế tài chánh công bằng, thịnh vượng và ổn định. Lúc này nhân quyền là thần dược hóa giải độc tài và các loại khủng bố chống loài người.
c) TPP là gạch nối chặt chẽ và bền bỉ giữa kinh tế và quốc phòng.
Ở đâu có quyền lợi tài chánh lớn lao, ở đó có lực lượng quốc phòng hùng hậu nhằm bảo vệ khối tài chánh quan trọng kia. Đó là quan hệ tất yếu giữa kinh tế và quốc phòng. Người Việt Nam gọi là “đồng tiền liền khúc ruột”. Khúc ruột là ý chí bảo vệ đồng tiền bằng sức mạnh quốc phòng.
Ông Brad Glosserman, giám đốc Diễn Đàn Thái Bình Dương, một tổ chức nghiên cứu an ninh ở Hawai, nhận định rằng: “Những gì TPP làm là trói buộc và nối kết Hoa Kỳ một cách chặt chẽ hơn nữa  với các nước trong khu vực và mối quan hệ quân sự của Hoa Kỳ là nhằm tới mục tiêu làm cho các nước đồng minh tin chắc là Hoa Kỳ bị ràng buộc với họ, và những địch thủ của Hoa Kỳ biết chắc là một vụ tấn công nhằm vào các nước đó (thành viên của TPP) sẽ được coi là một vụ tấn công nhằm vào nước Mỹ.” (Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ VOA.20.5.2015)
d) TPP là xu thế, là mệnh lệnh của lịch sử loài người.
TPP không hề là một sáng tác tư tưởng của Hoa Kỳ hay của bất kỳ quốc gia nào. TPP là một khám phá về quy luật sống hằng cửu của loài người trên địa bàn kinh tế quốc phòng nói riêng, văn minh nhân bản nói chung. Hiện tại, Trung Quốc là quốc gia hàng đầu vẫn mải mê thực hiện những tác vụ thương mãi bóc lột. Như vậy TPP mặc nhiên loại bỏ Trung Quốc ra khỏi sân chơi kinh tế tân kỳ theo đúng xu thế của lịch sử loài người. Đây là tác động loại bỏ hòa bình nhất, hữu hiệu nhất. Loại bỏ để cải tạo. Cuối cùng, trong tương lai không xa, vì nhu cầu tồn tại của chính Trung Quốc, Trung Quốc sẽ hoạt động thương mãi theo đúng luật chơi  của TPP.
2) CSVN muốn gì? CSVN có hai điều muốn
a) CSVN muốn mãi mãi bám lấy bang giao Việt Cộng-Trung Cộng để thực hiện tội ác tham ô bất tận.
Không phải Việt Nam không có khả năng xây dựng một nền kinh tế tự chủ. Do lòng tham ô và độc ác bất tận, CSVN đã sản sinh ra tại Việt Nam một guồng máy kinh tế lệ thuộc chặt chẽ vào Trung Quốc: Kinh tế gia công. Chỉ có làm ăn với Trung Quốc, CSVN mới giàu to qua kiểu dành cho người Tàu độc quyền trúng thầu theo thủ tục “bì thư chạy dưới gầm bàn”, thủ tục “lại quả”… Kế đó là bán biển, bán rừng, bán luôn cả đất trên những yếu khu quân sự và bán buôn tất cả những gì có thể giúp cho Việt Cộng và Trung Cộng béo mập trong hũ gạo Viêt Nam.
b) CSVN muốn vào TPP để hạ cánh an toàn và để được bảo vệ bởi cái dù quốc phòng của Mỹ.
Tâm lý tham ô và độc ác của CSVN như đã nói ở trên hiện bị đe dọa bởi hai tình huống:
– Tội ác của CSVN đối với quần chúng Việt Nam cao như núi, lớn như rừng. CSVN không thể không bị lịch sử trừng phạt.
– Trung Quốc sinh ra và nuôi dưỡng CSVN. Sau 30.4.1975, CSVN theo Liên Xô, chống lại Trung Quốc. Tháng 2/1979 chiến tranh Việt-Hoa diễn ra. Hận thù này chỉ được giải trừ chừng nào CSVN chết dưới lưỡi kiếm của Trung Quốc.
Nhằm đương đầu với những tai họa từ Trung Quốc hoặc từ quần chúng Việt Nam, CSVN một mặt tiếp tục đàn áp thế lực chống đối để kéo dài cuộc tham ô, mặt khác, chuẩn bị những bước đi cần thiết để vào TPP, tức là để vừa “hạ cánh an toàn” vừa “thoát Trung” .
Vào TPP, CSVN được tiếng đã giúp Việt Nam thoát Trung, đồng thời, được bảo vệ bởi cái dù quốc phòng của Mỹ (xin xem 1c, mục B).

C. PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA TPP
1) Bằng cách nào TPP nâng cao mức sống của một xã hội?
Thương mãi công bằng là hoạt động thương mãi trong đó hàng hóa của các bên  giao thương đều được lưu thông dễ dàng, phong phú và ổn định. Muốn vậy, mức sống của quốc gia nghèo cần phải nâng cao. Số thống kê cho thấy Việt Nam có 53 triệu công nhân, chiếm 60% tổng dân số. Đây là thành phần chủ lực của xã hội.  Nâng cao mức sống của xã hội tức là nâng cao mức sống của thành phần chủ lực vừa kể như một động tác kích hoạt bài toán nhân. Với sự hỗ trợ của TPP, công nhân sẽ kéo mức sống của chính họ và của toàn xã hội lên cao. Điều này giải thích lý do tại sao TPP gồm 30 chương, chương 19 là chương dành riêng chỉ để nói về quyền của người lao động. Hai mươi chín (29) chương còn lại là những chương viết chi tiết về vô số tác vụ kinh tế – thương mãi công bằng và những tố tụng cần thiết để giải quyết tranh chấp.
2) Làm thế nào để CSVN không thể chỉ thụ hưởng quyền lợi của TPP, nhưng lại tránh né thực thi nghĩa vụ do TPP qui định?
Hiệp định TPP là thỏa thuận của 12 quốc gia TPP. Thỏa thuận kia qui định rõ ràng và chi tiết quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi thành viên TPP trong việc xây dựng, bảo vệ và phát triển một hệ thống thương mãi quốc tế công bằng và thịnh vượng. Trong trường hợp quyền lợi và/hoặc nghĩa vụ của một hay nhiều quốc gia thành viên bị vi phạm thì mọi tranh tụng sẽ được phân xử theo “Chương 28: Giải Quyết Tranh Chấp”. Như vậy, những thỏa thuận trong TPP là luật cam kết của TPP. Chương 28 là luật tố tụng của TPP. Nhìn về mặt phương pháp pháp lý, TPP là một sản phẩm của luật pháp quốc tế hoàn hảo trên cả hai địa bàn: cam kết và tố tụng. Với cấu trúc pháp lý tinh vi và thích nghi như vừa kể của TPP,  CSVN hoàn toàn không có khả năng “ăn bánh, không trả tiền”.
Mặt khác, CSVN vốn nổi tiếng là thủ phạm bất tín hàng đầu trong những cam kết quốc tế. Nhằm tránh mọi bất tín có thể xảy ra, bên lề TPP, Hoa kỳ còn thực hiện với CSVN các thỏa thuận riêng như sau:
1) Việt Nam cho phép công nhân thành lập công đoàn độc lập. Công đoàn độc lập có quyền đình công vì lý do: tiền lương, giờ làm việc, quyền và điều kiện làm việc.
2) Công đoàn độc lập không bị buộc phải gia nhập Liên đoàn lao động của chính quyền CSVN.
3) Công đoàn độc lập có quyền liên kết với nhau và có quyền tìm sự hỗ trợ của các tổ chức lao động quốc tế: American Federation of Labor-Congress of Industrial Organizations (AFL-CIO)
4) Một ủy ban ba chuyên viên lao động gồm Hoa Kỳ, Việt Nam và Tổ chức lao động quốc tế. Ủy ban này chuyên trách theo dõi những tuân hành của Việt Nam về quyền của người lao động.
5) Việt Nam cam kết sửa đổi luật pháp Việt Nam sao cho phù hợp với luật TPP, nếu xảy ra mâu thuẫn về luật pháp giữa Việt Nam và TPP.
6) Kể từ ngày TPP có hiệu lực, Việt Nam có thời hạn 5 năm để thực thi nghiêm chỉnh những cam kết về quyền của người lao động. Nếu Việt Nam có dấu hiệu không nghiêm chỉnh, quá hạn 5 năm vừa kể,  Hoa Kỳ sẽ từ chối cung ứng cho Việt Nam những quyền lợi thương mãi như đã qui định trong TPP.

D. TPP VÀ DIễN BIẾN DÂN CHỦ HÓA ViỆT NAM
Từ bản thể, nhận thức và phương pháp của TPP, chúng ta nhận ra ngay những tác động sau đây của TPP đối với diễn biến dân chủ hóa Viêt Nam:
1) Từ khi ra đời, CSVN vẫn tự nhận “đảng CS là đảng của giai cấp công nhân”. Ngày nay sau thất bại của “kinh tế quốc doanh”, thất bại của “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, dưới áp lực của TPP, CSVN bắt buộc phải cởi trói cho công nhân. Công nhân ly khai khỏi đảng  bằng cách tự do thành lập và gia nhập công đoàn độc lập. Tự do liên kết với các tổ chức lao động quốc tế để dành lại trọn vẹn quyền sống và quyền làm việc của người lao động. Thái độ “dành lại” vừa kể là sự mặc nhiên xác nhận: kiểu tự xưng “đảng CS là đảng của giai cấp công nhân” là một tiếm danh, một phi chính danh, phi chính nghĩa.
2) Mục tiêu hàng đầu của TPP là nâng mức sống của xã hội Việt Nam lên cao. Mức sống của xã hội không thể nâng cao nếu xã hội đó đang bị nhận chìm trong tham nhũng. Muốn vậy TPP phải mạnh mẽ triệt tiêu tham nhũng, triệt tiêu mọi cơ hội phát triển của những nhóm lợi ích (ký sinh của CSVN). Từ đó quyền lực tài chánh của CSVN  suy yếu kéo theo suy yếu quyền lực chính trị.
3) Về tự do kinh doanh, TPP đòi hỏi tư doanh phải được nhanh chóng nâng lên ngang tầm với doanh nghiệp nhà nước. Thế lực tài chánh của tư nhân lên cao, ngoài sự chi phối của CSVN, là cơ hội để tư nhân củng cố uy thế chính trị. Trong hoàn cảnh này, xã hội dân sự được vững vàng phát triển theo đúng nhu cầu vận hành của quốc gia.
4) Mức sống của công nhân Mỹ và công nhân Việt Nam có chênh lệch quá xa. Điều này làm cho giao dịch thương mãi giữa Mỹ và Việt Nam trở nên không công bằng. Do vậy các tổ chức lao động Mỹ, vì quyền lợi của công nhân Hoa Kỳ, sẽ vận dụng toàn lực trong việc hỗ trợ công nhân Việt Nam đòi hỏi CSVN nhanh chóng và tích cực thực hiện thỏa thuận TPP. Sự hợp tác giữa công đoàn độc lập Việt Nam và các nghiệp đoàn lao động Mỹ sẽ là một lực đẩy cực mạnh giúp đời sống của công nhân Việt Nam được tiến gần với mức sống của công nhân Mỹ cả về kinh tế lẫn quyền làm công nhân, quyền làm người. Lực đẩy này còn là đôi tay bằng thép trong việc mở rộng cánh cửa dân chủ nhân quyền cho Việt Nam.
5) Mười hai (12) quốc gia trong TPP cùng cam kết sẽ xây dựng và phát triển một hệ thống thương mãi công bằng và thịnh vượng. Điều này có nghĩa là mỗi thành viên TPP phải là một xã hội công bằng và có mức sống ngang tầm với các quốc gia đồng ước. Xã hội công bằng không là gì khác hơn là xã hội thượng tôn nhân quyền. Nhân quyền là quả tim của dân chủ. Việt Nam thực thi trọn vẹn TPP, Việt Nam phải là xã hội dân chủ nhân quyền.
Năm nhận định trình bày ở trên là năm thao tác tuyệt đối hòa bình có công dụng tháo gỡ một cách từ từ và nhẹ nhàng mọi nanh vuốt của chế độ độc tài – tham ô Hà Nội. Dân chủ nhân quyền là hệ quả tất yếu của TPP. CSVN có thừa khôn ngoan để nhận ra kịch bản “diễn biến hòa bình” nằm bên trong hiệp định TPP. Tuy nhiên, giữa hai ngả đường, hoặc: chết dưới lưỡi kiếm của Trung Quốc về tội “phản Trung 1979”, hoặc “thoát Trung” qua cửa ngõ TPP, CSVN không thể không chọn TPP.
© Đỗ Thái Nhiên


No comments:

Post a Comment