Gia chánh

Monday, February 29, 2016

Tết và lính

Đồng đội cũ trong tim buồn và nhớ,
Áo nhà binh, giày trận, súng, ba-lô.
Thịt ba-lát, rau rừng, cơm gạo sấy,
Chiều dừng quân thương em gái vô bờ !
 
Tết tiền đồn lương khô thay bánh mức,
Bàn thờ Cha bằng thùng đạn Pháo-binh.
Bình vỏ đạn cắm đầy hoa cỏ dại,
Tấm lòng con trong thời buổi đao binh.
 
Đêm ba mươi mượn vài chung nước lã
Thay trà thơm chờ đón phút giao mùa
Nơi quê nhà một mình ai tựa cửa
Thương quá mẹ già ngóng đợi con xa.
 
Đón giao thừa quây quần trong lô-cốt,
Rượu bi-đông uống cạn lãng quên đời.
Tiếp tế trễ chuyền tay từng điếu thuốc,
Chúc mừng nhau năm mới ấm tình người.
 
Đời lính chiến chẳng màng gì danh lợi,
Trĩu đôi vai gánh vác nợ sơn hà.
Mơ ước một ngày thanh bình muôn lối,
Khắp thôn làng rận rã khúc hoan ca.
 
Ta đã từng sống một thời như thế,
Chí làm trai không thẹn với non sông.
Xin cúi đầu tạ hồn thiêng sông núi,
Sinh ra ta con cháu giống Lạc-Hồng !
 
Lê phi Ô  
 


Sunday, February 28, 2016

Megastrutture, il ponte Øresund diventa un tunnel che dalla Danimarca porta alla Svezia !!!


Beware green tea drinkers!!


GDVBDL - Chân dung người lính Việt Nam Cộng Hòa (Tập 1)


Xin xem Tâp 2 bên phải của youtube

Những màn ảo thuật hay nhất thế giới 2015


Cám Ơn Anh TPB VNCH - Vũ Hàn Giang & Thế Sơn

Kính thưa qúy anh chị và các bạn,

Sau bao nhiêu năm tháng kêu gọi sự tiếp tay của quý anh chị cùng các bạn, các em, các cháu trên toàn thế giới để cùng nhau chung lưng, sát cánh ra sức cứu trợ cũng như giúp đỡ các Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH đang sống vất vưởng ở quê nhà. Cá nhân tôi cũng như chị Hạnh Nhơn và hội HO/TPB&QP/VNCH
đã nhận được biết bao nhiêu là ân huệ quý báu cùng những hỗ trợ bao dung từ tinh thần đến vật chất ở khắp mọi nơi.

Hôm nay, để đền đáp những tình cảm cao quý đó, chúng tôi xin gởi tặng đến tất cả mọi người một món quà vô giá, đó là nhạc phẩm "Cám Ơn Anh Thương Phế Binh VNCH", nhạc của Vũ Hàn Giang và Thùy Lan, lời được các tác giả trích từ nhiều sáng tác thi văn ở thành phố Ottawa, Canada, nói về sự hy sinh của các chiến sĩ QLVNCH nói chung và của các vị TPB nói riêng. Nhạc phẩm này do nam ca sĩ Thế Sơn trình bầy, hòa âm bởi nhạc sĩ Đồng Sơn, và video clip được anh Vũ Văn Vĩnh thực hiện. 

Xin mời quý anh chị cùng các bạn thưởng thức và tuy nghi phổ biến đi khắp mọi nơi và nhất là để xử dung trong các buổi gây quỹ cứu trợ TPB VNCH ở khắp mọi nơi.

Chân thành cảm ơn quý tác giả cùng ca sĩ Thế Sơn đã cho phép chúng tôi được chia sẻ một nhạc phẩm tuyệt vời và đầy ý nghĩa này đến tất cả mọi người:
Nam Lộc



Nỗi Đau Tuổi Già


 

Ở đây, chúng ta không bàn chuyện đau nhức, cao máu, tiểu đường...nữa, vì đã có quá nhiều vị bác sĩ quan tâm tới tuổi già trên đất Mỹ này. Những loại đau trên đã có thuốc và có chính phủ Mỹ trả tiền, nhưng có những thứ đau khác không có thuốc chữa và cũng không ai kê vai gánh vác giùm.
Báo OC Register thứ sáu tuần trước có đăng tin một ông già bị người ta đem bỏ trước cổng một ngôi chùa ở thành phố Westminster. Ông lặng lẽ ngồi trước hiên chùa suốt ngày. Cảnh sát đến mang ông vào bệnh viện tâm thần. Ông không có trong người bất cứ một thứ giấy tờ nào để biết được ông là ai, ở đâu. Ông không nói một lời nào, chỉ biết lặng lẽ, đôi khi cười một mình như một người mất trí. Ông là một người Á Châu, Việt Nam cũng chưa chừng, như vậy ông không phải sinh ra ở đây, hay từ trên trời rơi xuống như cô bé Maika trong một tập phim Tiệp Khắc. Vậy là có người chở ông tới và bỏ ông lại đây, không ai ngoài con cái hay thân thích của ông. Lâu nay thỉnh thoảng người ta thấy có những thiếu phụ sinh con rồi đem con bỏ vào thùng rác, nhưng chưa thấy ai đem cha mẹ vứt bỏ ngoài đường. Ông già chỉ cười vu vơ, trí nhớ của ông đã suy kiệt, nếu không ông sẽ đau khổ biết chừng nào?

Trước đây người ta kể chuyện có người chở bà mẹ già bỏ ở cây xăng, tôi không tin, tưởng là chuyện đùa, nhưng bây giờ thực sự lại có người “đem cha bỏ chùa ”.
Cũng lại câu chuyện của một người già. Tháng trước, trong một dịp đưa người thân đi Việt Nam, tại quầy vé China Airline ở phi trường Los Angeles tôi đã chứng kiến một cảnh khá đau lòng. Trong khi mọi người đang xếp hàng trình vé, cân hàng thì một bà cụ người Việt cứ loay hoay lúng túng trước quầy vé với các thứ giấy tờ vương vãi, bề bộn trên sàn nhà. Bà ngồi bệt xuống đất hết móc túi này đến túi nọ, vẻ mặt lo lắng. Một nhân viên an ninh phi trường thấy tôi cũng là người Á Đông, ngỏ ý muốn tôi lên giúp bà cụ. Nhân viên quầy vé cho biết bà có vé máy bay, một visa nhập cảnh Việt Nam nhưng không có passport hay thẻ xanh. Tôi giúp bà moi từ đống giấy tờ ra chỉ thấy một cái hộ chiếu của Việt Nam cấp cách đây mười mấy năm khi bà đến Mỹ đã hết hạn và một cái ID của bà do tiểu bang Florida cấp. Bà mới từ Florida đến phi trường Los mấy giờ trước đây một mình và trình giấy tờ để lên máy bay đi Việt Nam.
Cuối cùng, bà cũng lên được máy bay, nhưng bà sẽ không bao giờ có thể trở lại Florida nữa vì trong tay bà không có passport của Hoa Kỳ, không thẻ xanh, không “entry permit”. Đây là trường hợp một bà mẹ già, quê mùa bị con cái “mời khéo” về Việt Nam. Tội nghiệp cho bà đã ngồi trên máy bay năm sáu tiếng đồng hồ để đến phi trường LAX, sắp tiếp tục chặng đường về Việt Nam nhưng không biết là mình không thể trở lại Mỹ và lòng bất nhân của con cái. Hình ảnh bà già này cứ ám ảnh tôi mãi. Bà vụng về, quê mùa, có lẽ cũng chẳng giúp ích được gì cho con cái mà chỉ thêm gánh nặng. Thôi để cho bà đi, khi biết mình không trở lại Mỹ được thì chuyện đã rồi. Tuổi bà có nằm lại trên quê hương cũng phải, sống chẳng giúp ích gì được cho ai, chết ở đây bao nhiêu thứ tốn kém.Hai vợ chồng sang Mỹ từ hai mươi năm nay, đi làm nuôi con, mua được căn nhà đã pay off. Khi các con đã có gia đình ra riêng thì ít năm sau ông cụ cũng qua đời. Thấy mẹ hiu quạnh trong một căn nhà khá lớn, mà giá nhà đang lên, các con bàn với mẹ bán nhà đi rồi về ở với các con. Bà mẹ bán nhà, thương con chia đều cho mỗi đứa một ít, còn dăm nghìn dắt lưng, rồi về ở với con. Bà không biết lái xe, không biết chữ nghĩa, cũng không biết trông cháu làm home work, nên cha mẹ chúng phải nhờ người đưa đón. Bà thích nấu ăn, gói bánh, kho cá, nhưng sợ nhà hôi hám, con cái không cho. Lúc đầu thì chẳng sao, lâu dần mẹ thành gánh nặng. Buổi chiều, đứa con gái xô cửa trở về nhà, thấy mẹ đang gồi xem TV, nó hất hàm hỏi: -“Có hiểu gì không mà thấy má ngồi coi suốt ngày vậy?” Có lúc chuông điện thoại reo, đứa con nhấc máy, bên kia không biết ai hỏi gì, trước mặt bà già, nó trả lời nhát gừng:-“Bả đi khỏi rồi!”

Một bà mẹ khác, ở chung nhà với một đứa con nhưng nhờ một đứa con khác đưa đi bác sĩ. Xong việc, nó đưa mẹ về rồi lẹ lẹ dọt xe đi làm. Bà già vào tới cửa, móc túi mãi không tìm ra cái chìa khóa nhà. Bà không có chìa khóa, không cell phone, cũng không có tiếng Anh, sợ sệt không dám gõ cửa hàng xóm. Bà ngồi đó, trên bục cửa cho tới chiều, khi đứa con ở chung nhà đi làm về, thì bà đã kiệt sức vì khô nước, phân và nước tiểu đầy mình.

Đời xưa, người ta kể chuyện trong một gia đình, có hai vợ chồng đối xử với ông cha già đã run rẩy của mình tệ bạc, cho cha ăn trong cái “mủng dừa”. Một hôm hai vợ chồng đi làm về thấy đứa con nhỏ của mình đang hì hục đẽo một cái gáo như thế, được cha mẹ hỏi, nó “thành thật khai báo” rằng “để dành cho cha mẹ lúc về già”.
Đâu phải ai nuôi con cũng nghĩ tới lòng cha mẹ, cũng như nhớ chuyện “trồng đậu có đậu, trồng dưa có dưa”.
 
Huy Phương

Người lính ĐPQ Lê Phi Ô

Tác giả:  Người xứ Nghệ

   Rất tình cờ tôi biết được Người Lính Địa-Phương Quân Lê Phi Ô, khi đọc bài "Tử Thủ" của tác giả Hắc Điểu trên một tờ báo online. Nội dung viết về Tiểu-đoàn 344/Địa Phương, thuộc Tiểu-khu Bình-Tuy, đã cầm chân được Sư-đoàn 6 Tân lập của Việt cộng, được tăng cường một Trung-đoàn Pháo, dưới quyền chỉ-huy của Thượng Tướng VC Trần-văn-Trà, Tư lịnh Quân-khu 7, trực diện tấn công Chi-khu Hoài-Đức, thuộc trách nhiệm phòng thủ của Tiểu-đoàn 344/Địa Phương.
   
                     hình Lê-phi-Ô

   33 ngày đêm tử thủ ở Bộ chỉ-huy Chi-khu Hoài-Đức, Tiểu-đoàn 344/ĐP quân số chỉ còn 50% hoặc it hơn. Trong khi đó Chi-khu Tánh-Linh gần đó đã thất thủ, và đơn vị tăng phái Liên-đoàn 7 Biệt-Động Quân, sau một thời gian quầng thảo với SĐ 6 Việt cộng đã lui binh. Tiểu-đoàn 344/ĐP đã đơn thương độc mã, tả xung hữu đột, đánh trả những đợt tiền pháo hậu xung bằng biển người của địch quân không cho chúng tràn ngập Bộ chỉ-huy Chi-khu Hoài-Đức. Những người Lính ĐPQ thuộc TĐ344/ĐP vào thời điểm nầy, thật sự chiến đấu trong tuyệt vọng, với tình trạng một người lính ĐPQ chống 10 thậm chí đến 20 Việt cộng với hỏa lực Pháo khủng khiếp. Nhưng với tinh thần Bảo-Quốc An-Dân hừng  hực trong mỗi người lính ĐPQ, nên niềm tin nơi họ chưa tuyệt. Và cuối cùng sự cứu viện của Sư-đoàn 18BB gồm Trung-đoàn 52/SĐ18BB từ hướng Nam đánh lên, Trung-đoàn 43/SĐ18BB từ hướng Bắc Định-Quán đánh xuống, mà nổ lực chính là Tiểu-đoàn 2/43, Tiểu-đoàn trưởng là Thiếu-tá Nguyễn-hữu-Chế "người hùng" của Sư-đoàn 18BB đã đánh tan tác các đơn vị cộng quân, giữ vững được Bộ chỉ-huy Chi-khu Hoài-Đức đã điêu tàn vì bom đạn. Người Hùng trong cuộc chiến 33 ngày đêm tử thủ, cầm chân được Sư-đoàn 6 Tân lập Việt cộng, không để cho Chi-khu Hoài-Đức thất thủ, đó là Đại-úy Lê phi Ô.
   Người Lính ĐPQ Lê phi Ô tốt nghiệp khóa 15 Trường Võ-khoa Thủ-Đức, cựu học sinh Trường công lập Phan-Bội-Châu Phan-Thiết từ năm 1955. Đáng lẽ, anh đã mang cấp bậc Thiếu-tá ngày 01 tháng 04 năm 1975, nhưng tình hình chiến sự, nên Quyết-định thăng cấp từ Bộ TTM không gởi đến được. Bạn anh, một Sĩ-quan làm việc tại Phòng Tổng-Quản-Trị Bộ TTM cũng đã cho biết thêm, lúc đó mọi phương tiện vận chuyển đều phải ưu tiên cho chiến trường. Anh cùng Tiểu-đoàn của anh với 3 Tiểu-đoàn bạn và 2 Đại-đội Trinh-Sát, đã không rút lui khi một Sư-đoàn Chính qui của Cộng sản Bắc Việt (thuộc Quân-đoàn 5 CS) được tăng cường 24 Tanks T.54 và một Trung-đoàn Pháo tiến vào Thị xã La-Gi, trong đó có Bộ Chỉ-huy Tiểu-khu Bình-Tuy, so với tương quan lực lượng có thể nói là "Châu-chấu đá Xe". Nhưng những người lính ĐPQ Tiểu-khu Bình-Tuy đã đánh một trận để đời vào đêm 23 tháng 04 năm 1975, để rồi gãy súng tan hàng...
   Cùng với vận nước nổi trôi, đã đẩy đưa anh vào những nhà tù khắc nghiệt của cộng sản, trong chính sách trả thù tàn độc nhất của những kẻ chiến thắng. Người lính ĐPQ Lê phi Ô đã từng nằm ở khám Chí-Hòa và sau đó bị đưa đến trại Trừng-Giới A20, mà lúc ở trại tù Xuyên-Mộc người viết bài nầy đã từng nghe những lời khủng bố của bọn Công-an được gọi là Cán-bộ Giáo-dục đe dọa: "Các anh cứ ngoan cố chống đối đi, chúng tôi đưa các anh tới trại Kiên Giam A20 là các anh tiêu đời". Trại Trừng-Giới A20 khủng khiếp đến chừng nào ? chúng tôi nhân dịp bài viết nầy, xin phép được nói về trại A20 qua lời kể của những người Lính bị giam giữ ở nơi đây:
   Trại Trừng-Giới A20 nằm ở thung lũng Xuân-Phước, một thung lũng tử thần, vào rồi khó có đường ra. Muốn vào tới đây, người ta phải vượt qua 60 cây số đường rừng. Nhưng tại sao lại gọi là Trại Trừng-Giới ? Thực ra không có tài liệu nào định nghĩa những trại xếp vào loại A, nhưng do quy chế với tù nhân cải tạo đặc biệt, khắc khe hơn những kiểu trại Lý-bá-Sơ hay Đầm-Đùn nên chúng tôi gọi Trại A20 là trại Trừng-Giới. Nhưng có thể mô tả một cách tổng quát một trại tù được gọi là Trại Trừng-Giới, khi nó được xử dụng để làm tan vỡ sức đề kháng tư tưởng của những người tù cải tạo cứng đầu nhất, tập trung từ những cuộc thanh lọc ở các trại giam khác. Nói tóm lại, trừ phi có những biến chuyển chính trị ngoại lai, những người tù cải tạo ở trại nầy có thể bị tù rất lâu mà không được xét tha. Những cán bộ kiểm tra Cộng sản trước khi ghi chúng tôi vào danh sách chuyển trại theo phương án 4 (thanh lọc) đã nói huỵch toẹt: "Vào đây (A20) thì có thép cũng phải chảy. Lũ chúng bay cứ gọi là rũ tù với những hồ sơ chết đi theo".
   Trại Trừng-Giới A20 rất đẹp, và nhìn qua người ta có cảm tưởng là một điểm du lịch, vườn rau, ao cá, những hàng dừa thẳng tắp, những căn buồng giam bằng gạch, mái lợp ngói đỏ, bệ nằm bằng xi-măng, nhà ăn, một phòng văn hóa với những sách Đỏ, một hội trường thênh thang với sức chứa 1,000 người. Nhưng nếp sống của tù nhân đàng sau nét đẹp khang trang nầy, là cả một địa ngục trần gian, ăn đói, làm việc khổ sai, bệnh không có thuốc, it được gặp gia-đình. Mỗi tối tù nhân phải "ngồi đồng" để phê phán nhau về lao động, bình bầu mức ăn hàng tháng, lấy của người nầy, cho người kia, gây chia rẻ cấu xé nhau trong số tù nhân. Đó là chưa kể đến buổi tối bọn cán bộ trại giam buộc tù nhân ngồi đấu tố lẫn nhau. Bọn cộng sản trại giam cài vào hệ thống ăng-ten dày đặc, và những dãy xà-lim kỷ luật, mà chúng tôi gọi là chuồng cọp cũng được dựng lên. Cán bộ an-ninh trại giam thường áp dụng chiến thuật "Ra tay trước", nghĩa là một người tù chỉ bị báo cáo "không an tâm cải tạo" sẽ phải nằm trong chuồng cọp hàng năm trời, bị cắt thực phẩm, bị cắt nước uống. Trong số những "Tù Vương" ( từ ngữ để chỉ những người bị cùm lâu nhất trong chuồng cọp), người viết bài nầy nhớ đến hai vị Linh-Mục là: Linh-Mục Nguyễn-văn-Vàng (Dòng Chúa Cứu Thế), năm 1969 lúc theo học khóa 9 Trung cấp CTCT tại Trường Đại-học CTCT Đà-Lạt, đã được nghe ngài giảng dạy về môn học "Nghệ thuật nói chuyện", ngài bị bắt khi tham gia vào một tổ chức Phục quốc, bị kết án chung thân và bị chuyển về trại giam A20, nghe những người bạn tù ở Trại tù A20 kể: ngài chết sau 3 năm bị cùm ở chuồng cọp, toàn thể người Ngài bị ghẻ lở, kể cả gương mặt, chỉ chừa đôi mắt. Linh-Mục Nguyễn-Luân, người viết biết Ngài ở trại tù Xuyên-Mộc, người tù bất khuất đã dám viết hàng chử: "Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam - Không có Độc Lập - Không có Tự Do - Không có Hạnh Phúc" trên mọi tờ khai lý lịch mà cộng sản bắt Ngài viết, sau đó bị chuyển ra trại giam A20, một số bạn tù khuyên Ngài nhẩn nhục để sống, vì cuộc đấu tranh lâu dài, sẽ cần có người như Ngài. Ngài chỉ nói: "Tôi muốn chỉ là viên gạch lót đường cho những cuộc đấu tranh sau nầy". Ngài đã về nước Thiên Đàng sau 3 năm nằm chuồng cọp.
   Với thời gian nằm chuồng cọp nhẹ nhất là nửa tháng đến một năm và nặng nhất từ 3 năm đến 5 năm bị cùm chân. Một bữa ăn trong chuồng cọp nhằm thời kỳ bị thẩm cung hay tù nhân bị "Đì", chỉ được phát 2 muổng cơm hay 3 lát khoai mì, được trộn với lượng muối đậm đặc, và 2 muổng nước nên tù nhân bị đói khát triền miên, từ ngày nầy qua ngày khác. Ngoài sự hành hạ về thể xác do cai tù chủ trương, còn có sự hành hạ của muỗi, muỗi nhiều đến nỗi mỗi người tù chúng tôi đành phải cho chúng hút máu no nê, không bay được nữa thì lăn đùng ra bệ nằm, rồi lấy tay chà để giết chúng. Cho nên khi vào chuồng cọp, phải lấy ngày làm đêm, giấc ngủ chập chờn trong thảng thốt, ăn uống thiếu thốn, ốm đau không có thuốc, sức lực tiêu tán rất mau. Để chống lại những biện pháp nầy, chỉ còn một phương pháp duy nhất: Chấp nhận phần xấu về mình, nghĩa là cầm chắc cái chết trong phòng kiên giam, khi chấp nhận cái giá nầy sẽ thấy mình thư thái, hết lo lắng, vượt qua được đói khát, vì thế người tù sống bình thản, không nghĩ gì về cái chết và sự sống nữa.
   Ngày người viết còn ở trong Ban Chấp Hành Hội CTNCT/New Orleans, trong một lần gặp ông Đào-văn-Bình Tổng Hội-trưởng Tổng-hội cựu TNCT. Ông có kể cho tôi nghe câu chuyện của Phóng viên tờ Nhật Báo Chính Luận trước năm 1975, Ký-giả Nguyễn-Tú, cũng là người tù Trại Trừng-Giới A20 về những sỉ-nhục mà người tù bị làm nhục và hành hạ:
   Thứ nhất: Theo ông (Nguyễn-Tú) thì bọn cộng sản VN còn tàn độc hơn bọn ác quỉ vì bọn chúng có khoái cảm hành hạ tù nhân. Tại trại tù A20 mỗi khi tù nhân bị kiên giam, cứ mỗi chén cơm chúng thêm vào một chén nước muối. Vì đói quá cho nên người tù vừa gạt nước mắt vừa ăn. Khi được thả ra vì quá khát nước, nên người tù cứ gục mặt xuống uống nước cống rãnh mà không sao kéo lên được. Cảnh tượng nầy giống cảnh chết khát trên sa mạc. Trong khi đó thì bọn cai tù CS thản nhiên đứng cười hô hố !
   Thứ hai: Có một điều mà thế giớp Phương Tây không sao hiểu được, là trong khi họ ra sức chống lại chế độ "Phân Biệt Chủng Tộc" ở Nam Phi, thì chính sách Phân Biệt Lý Lịch của CSVN còn tệ hại hơn rất nhiều mà họ không biết. Chủ nghĩa Phân Biệt Chủng Tộc Nam Phi chưa tinh vi và tàn khốc bằng sự sự Phân Biệt Lý Lịch Phản Động. Họ đã biến người Miền Nam thành một loài nô lệ, một thứ dân bị trị hay đúng hơn một thứ kẻ thù cần bị tiêu diệt.
   Thứ ba: Trong khi cả loài người lên án bọn diệt chủng Pol-Pot, thì người ta quên lên án tội diệt chủng khủng khiếp của bọn đao phủ Hà-Nội. Bọn Khmer Đỏ chỉ giết 1 triệu người thôi. Còn bọn CSVN sau khi chiếm được miền Nam, đã bỏ đói cả dân tộc suốt 15 năm. Hiện nay trẻ em còi cọc không lớn được, phụ nữ không có khả năng sinh nở vì thiếu dinh dưỡng hoặc bị sẩy thai liên miên, dân miền Nam đang phải đối đầu với nạn diệt chủng qui mô có toan tính, có sách lược.
   Thứ Tư: Trong lịch sử nhân loại chưa có chế độ nào tàn phá lương tâm và nhân phẩm con người bằng chế độ Cộng Sản. Hiện nay ở Việt-Nam chỉ cần một cái nhìn đểu là người ta có thể giết nhau, chỉ cần một tí tiền là cháu nội có thể lấy búa bổ lên đầu ông bà nội để cướp.
   Nói đến người tù Trại Trừng-Giới A20, chúng ta lại nghĩ đến người lãnh tụ da đen Nam Phi Nelson Mandela. Mandela ở tù 26 năm nhưng không mất vợ mất con, gia đình và Tổ Quốc của ông vẫn còn đó. Danh vọng, sự nghiệp, nhà cửa, bằng cấp, chiến hữu của ông vẫn còn đó. Chắc chắn ông không bị bỏ đói, không phải kéo cày thay trâu, ông chưa phải ăn chuột chết, gián sống, chưa phải uống nước cống rãnh, chưa bị lột trần truồng cùm chân trong chuồng cọp. Chưa ngồi trong phiên họp để chửi bới, kết tội cha ông, bạn bè, chiến hữu mình. Con gái ông chưa phải đi làm đĩ, hay đi bán dưa hấu trên sân ga, bến xe, thế mà ông được thế giới ca tụng là Tù Vương !? Nhưng còn Nguyễn-Tú, trong đó có người lính ĐPQ Tiểu-khu Bình-Tuy Lê phi Ô, và hàng trăm ngàn Quân Cán Chính VNCH thì sao ?! Họ đã mất tất cả từ vợ con, gia đình đến Tổ Quốc. Họ mất cả thân thế, dĩ vãng, bằng cấp, của cải và nhân phẩm. Họ đã trãi qua cuộc sống của loài thú vật trong địa ngục ghê rợn nhất. Để rồi khi được phóng thích, họ đã can đảm đạp lên cái chết, lên sóng nước hiểm nguy để tìm tự do. Và họ đến mảnh đất Hoa-Kỳ nầy trong âm thầm tủi nhục mà không ai biết đến họ. Nếu như có dịp gặp Mandela, tôi sẽ nói thẳng với ông ấy, là sau 26 năm ông vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu, đó là nét đẹp tuyệt vời. Tuy nhiên những nỗi thống khổ mà ông đã chịu đựng, so với hàng trăm ngàn Tù Vương Việt-Nam sau khi mất nước thì ông chỉ là con số không !
   Sở dĩ tôi dài dòng kể lại cái khủng khiếp của những trại tù Cộng sản được dựng lên dài từ Nam ra Bắc để cầm tù Quân Cán Chính VNCH, sau khi Cộng sản cưỡng chiếm được miền Nam mà trong đó Trại Trừng-Giới hay Trại Kiên Giam A20 là một. Vì người lính ĐPQ Tiểu-khu Bình-Tuy Lê phi Ô, sau 7 năm tù đã hiên ngang bước ra từ địa ngục A20 nầy. Thế mới biết sự chịu đựng dẽo dai, sự nhẩn nhục để đợi chờ: "Ngày mai trời sẽ sáng" của những người lính, người tù khi Nước mất. Qua đến xứ người, người lính ĐPQ Lê phi Ô, không cam tâm trở thành cái bóng của quá khứ, an nhàn trong cuộc sống hiện tại. Anh muốn kể lại những chặn đường chiến đấu đầy máu lửa của thế hệ anh, những người lính can-trường chiến đấu trong cuộc chiến tranh tự vệ, chống lại cuộc xâm lăng của cộng sản phương Bắc. Để con cháu tương lai được hãnh diện với quá khứ của Cha Ông chúng, tiếp tục dấn thân vào con đường đấu tranh cho một đất nước Việt-Nam tự do, dân chủ và quyền làm người của cả một dân tộc. Trong những Hồi-Ký và Tùy-Bút Chiến-Trường anh viết và tải lên trang Blog của anh, chúng tôi đọc được những dòng chử viết bằng máu và nước mắt, của 33 ngày đêm anh cùng Tiểu-đoàn 344/ĐP tử thủ quyết không cho cộng sản chiếm được BCH/Chi-khu Hoài-Đức. Anh đã sống dưới trận mưa Pháo của địch, những cuộc tấn công biển người của những con thiêu thân "sinh Bắc tử Nam". Anh đã từng chứng kiến những người lính thân yêu trong đơn vị mình, từng người, từng người một nằm xuống. Một địa ngục được quân Cộng sản dựng nên trong âm mưu cưỡng chiếm vùng đất thân yêu Hoài-Đức, Bình-Tuy nói riêng và cả nước VNCH nói chung. Thì anh, cái địa ngục trần gian A20 do bọn Cộng sản dựng lên dể hành hạ những Thiên-thần gãy cánh như anh, thì có sá gì !
   Bài viết rất thực, không phải tự vinh danh mình, người chỉ-huy của trận đánh mà anh đã vinh danh cả tập thể Quân cán Chính của Chi-khu Hoài-Đức, đặc biệt là những người "Vợ Lính". Trong một Tùy-Bút Chiến-Trường với tựa: "Chiến-Sĩ Vô Danh" với lời dẫn: - "Trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam trước họa xâm lăng của Cộng sản phương Bắc, Quân-lực VNCH đã có biết bao Anh-Hùng, Liệt-Nữ vị Quốc vong thân. Bên cạnh đó, có những hy sinh không kém hào hùng it được nhắc tới, tôi muốn nói đến những người lính không có số quân: "Vợ Lính" !"  Anh đã kể lại trận đánh có sự tham dự của những người Vợ Lính, và họ đã anh dũng hy sinh trong trận đánh nầy:

CHIẾN-SĨ VÔ DANH - (Lê phi Ô)
   "Đúng 02:00 giờ sáng ngày 09 tháng 12 năm 1974, Lính vừa đổi phiên gác thì một ánh chớp cùng tiếng nổ long trời tại hàng rào phía tây của BCH Chi-khu Hoài-Đức, nơi tuyến phòng thủ của một trung đội thuộc Đại-đội Chỉ-Huy, một trung đội của Đại-đội 3 và tiểu đội Thám-báo Tiểu-đoàn. Khói lửa, cát bụi mịt mù. Đặc-công VC đã chui vào hàng rào đặt chất nổ phá hủy nhiều lớp kẽm gai. Lập tức, tổ Thám-báo Tiểu-đoàn tung nhiều quả lựu-đạn vào vùng khói lửa, nơi vừa xảy ra tiếng nổ để ngăn chặn bọn Đặc-công cảm tử xông vào. Trong ánh chớp kèm tiếng nổ của lựu-đạn, vài tên VC chạy ngược trở ra, nhưng đã bị khẩu Đại-liên trên vọng gác đốn ngã. Những trái chiếu sáng tay và của súng cối 81 ly được phóng lên sáng rực bầu trời, tôi gọi Trung-úy Lưu-đức-Thắng (khóa 24/VBĐL) Đại-đội trưởng ĐĐ3/344 cẩn thận mặt Bắc, nơi có ngôi Chùa nhỏ sát hàng rào phòng thủ...đây cũng là đường tiến sát thuận lợi cho VC, vì chúng biết Lính không bao giờ dám mang súng đạn vào gần Chùa, dù để phục kích đêm. Trung-úy Thắng báo đã bắn hạ 2 tên địch khi chúng vào tới hàng rào phòng thủ trong cùng...mười phút sau, Thắng cho biết hàng rào đã bị cắt đứt nhiều chổ. Lập tức, tôi cho lịnh Trung-Úy Thời Đại-đội truởng ĐĐ2/344 đang bố trí quân tại trại cưa bên ngoài Chi-khu cách 500 thước về hướng Đông, đưa ngay một Trung-đội vào chiếm giữ ngôi Chùa nhỏ. Trung-đội nầy chạm súng nhẹ và Địch bỏ chạy, đây chỉ là tổ cảnh giới của Địch.                          Đây không chỉ là trận đánh đơn thuần của đơn vị Đặc-công địch, vì Đặc-công chỉ lẻn vào âm thầm, chứ không phá hàng rào nhiều chổ như vậy, bọn chúng đang chuẩn bị chiến trường cho những đơn vị lớn hơn. Đúng như tin tức Mật từ Phòng 2 Bộ TTM cho biết trước: VC mở chiến-dịch "Tánh-Linh - Hoài-Đức" để đánh chiếm 2 Quận nầy theo chiến thuật chúng gọi là "Bóc vỏ" trước khi tiến đánh Thị-xã Xuân-Lộc, nếu không thành công thì ít ra chúng cũng cầm chân được một số lớn đơn vị của ta, để dễ bề đánh chiếm Tỉnh Phước-Long.         
    Trước đây một tuần, vì áp lực địch quá nặng nên Quân-khu 3 đã tăng cường Liên-đoàn 7/BĐQ cho Chi-khu Hoài-Đức. Đơn vị BĐQ nầy đóng quân tại Gia-Huynh nằm trên Tỉnh lộ 333 về hướng Nam, và cách Bộ Chỉ-huy CK Hoài-Đức 10 cây số. Đồng thời Bộ Chỉ-huy Tiểu-khu ra lịnh cho TĐ344/ĐP của tôi rút bỏ xã Võ-Xu và các ấp nằm dọc Tỉnh lộ 335, về phòng thủ duy nhất cứ điểm Chi-khu và xã Võ-Đắt. Hoài-Đức là Quận xa nhất của Tỉnh Bình-Tuy, cách Tỉnh lỵ 80 cây số đường chim bay. Chung quanh Quận lỵ là rừng bạt ngàn, phía Đông Bắc giáp Tỉnh Lâm-Đồng toàn núi rừng của chặng cuối dãy Trường Sơn thuận lợi cho việc che dấu và tiến sát các đơn vị lớn VC mà máy bay khó phát hiện...những cuộc hành quân lục soát đã khám phá nhiều dấu vết địch cấp Trung-đoàn, tôi cho vài người lính gốc Thượng giả dạng dân làm rừng xâm nhập những vùng nghi ngờ có địch để thám sát, những người lính nầy ra đi không về !                                                                         
   Những cuộc chuyển quân lớn của Ta và Địch làm cho người dân đoán được tình hình rất nghiêm trọng, nên gồng gánh ra đi bằng nhiều phương tiện khác nhau. Đêm 24 rạng 25 tháng 12 năm 1974, Chi-khu Tánh-Linh cách Hoài-Đức 15 cây số về hướng Đông Nam thất thủ. Chi-khu Hoài-Đức suốt tuần nay bị địch pháo bằng Hỏa-tiễn 107 ly, Cối 120 ly, Cối 82 ly trung bình 500 qủa một ngày. Pháo binh ta chỉ phản pháo cầm chừng vì đạn khan hiếm. Liên-đoàn 7/BĐQ ở phía Nam cũng chạm nặng với khoảng 2 Trung-đoàn VC. Pháo đội 105 ly của Pháo-đội trưởng Nguyễn-hữu-Nhân thuộc TĐ181/PB/SĐ18BB tăng cường cho Liên-đoàn 7/BĐQ phải dời vị trí nhiều lần (Nhân là anh vợ của Lê phi Ô), cứ mỗi lần qua vị trí mới, là vị trí cũ bị địch pháo tan nát, Pháo-đội nầy bị mất 2 khẩu Đại-bác 105 ly vào tay Cộng quân. Thiết-đoàn 5 Kỵ-Binh vào tăng viện cho LĐ7/BĐQ, cũng bị thiệt hại đáng kể (2 Sĩ-quan cấp Tá bị tử thương).                                                                   
   Ban ngày bị pháo, ban đêm bị tấn công liên tục, xin Phi Cơ C123 yểm trợ và soi sáng không có...tổn thất lên cao mỗi ngày. Đang cầm máy điều động các đại-đội phản công địch thì 2 Cảnh-sát Dã chiến hớt hãi chạy đến báo: "Thưa Thẩm quyền, ông Trưởng Chi của chúng tôi bị VC bắt rồi !". Tôi tái mặt, Chi Cảnh-sát nằm ngay trong BCH/Chi-khu và cách BCH/Tiểu-đoàn của tôi 30 thước, với một Tiểu-đội CSDC, gần một Tiểu-đội Cảnh-sát sắc phục và tổ Thám-báo Tiểu-đoàn 5 người...mà bị VC bắt...?! Tôi và Thượng-sĩ Hường Thường Vụ Tiểu-đoàn, 2 anh cận vệ cùng mấy anh CSDC băng qua Chi Cảnh-sát. Việt Cộng đã đột nhập cắt BCH/Chi-khu ra làm hai vì hỏa lực nơi đây tương đối yếu. Trước khi bị anh em lính và Cảnh-sát phản công, VC khi rút lui chúng đã bắt được Đại-úy Long Trưởng Chi và 2 Cảnh-sát viên mang theo, một số lính Tiểu-đoàn và Cảnh-sát tử thương. Tôi tăng cường thêm 3 người lính của toán Hỏa Đầu vụ Tiểu-đoàn cho tuyến của Cảnh-sát (vì không còn quân). Trên đường đi lại BCH/Tiểu-đoàn, thoáng thấy một bóng người nép vội vào gốc cây xoài bên hông văn phòng Quận cách tôi 10 thước, dáng dấp khả nghi không giống như lính. Tôi ra dấu cho Thượng-sĩ Hường và một anh lính nép sát vào tường sẳn sàng yểm trợ, tôi và anh cận vệ bò về hướng cây xoài. Bóng người lạ xê dịch như muốn chạy, cả 2 chúng tôi hướng súng định bắn, bổng một trái chiếu sáng tay bùng cháy trên trời soi rỏ bóng người lạ chỉ cách tôi 3 thước, không có súng và hình như đàn bà, "Nữ Đặc-Công VC ?", vừa thoáng nghĩ trong đầu thì anh cận vệ của tôi nhảy chồm người lên tên Đặc-công, còn súng của tôi thì kê sát lưng hắn sẳn sàng bắn. Anh cận vệ bổng la lên: "Mày hả ?", anh ta quay lại tôi nói nhỏ: "Con bé Hạ, ông thầy ơi !"- Tôi quát khẽ: "Mầy làm gì ở đây ?", con bé mặt còn nguyên nét sợ hãi: "Dạ em...dạ em...!", vài quả đạn pháo nổ quá gần, chúng tôi chạy ùa vào lô-cốt kế cận, tôi hỏi lại: "Mầy làm gì ở đây ?", Thượng-sĩ Hường nói: "Mấy bửa nay nó thay thằng Xuân đi tiếp đạn cho anh em...", tôi nói như trách Thượng-sĩ Hường: "Mấy bửa nay ?! Thằng Xuân đi đâu mà nó phải đi tiếp đạn ?- "Dạ, thằng Xuân anh của nó...chết rồi !"                                 
   Tôi hụt hẫng, cổ họng có cái gì nghèn nghẹn !. Ông già Mai, ba của con bé Hạ một nông dân hiền lành sống với ruộng rẫy, thằng Đông con lớn của ông, đi lính tử trận ngoài Trung, từ đó mỗi khi đi làm rẫy, nhận được tin tức gì của VC, ông đều bí mật báo với chính quyền Quốc-Gia, bọn cơ-sở nằm vùng của VC biết được, đã chặt đầu ông ngoài rẫy với một bản án để răn đe. Thằng Xuân là lính của Tiểu-đoàn tôi...con bé Hạ không dám ở nhà một mình, nên vào đồn sống với anh nó, bây giờ thằng Xuân chết rồi...nó sẽ sống với ai ?! Tôi nói thật khẽ với Thượng-sĩ Hường, như nói với chính tôi: "Bố Hường, tạm thời Bố nuôi bé Hạ giùm tôi...để khi nào yên tôi sẽ tính sau !", Tôi quay về hầm Chỉ-huy của tôi dưới làn mưa pháo của địch.                                                        
     Sau khi Quận Tánh-Linh thất thủ, bọn VC dồn cả lực lượng cấp Sư-đoàn tấn công Liên-đoàn 7/BĐQ và Chi-khu Hoài-Đức do Tiểu-đoàn tôi tử thủ với quân số còn lại khoảng 200 người. Trước trận đánh, vì Bình-Tuy không đủ quân số nên xin tăng cường thêm 2 Tiểu-đoàn ĐPQ, Quân-khu 3 chỉ tăng cường một Tiểu-đoàn ĐPQ cho Chi-khu Tánh-Linh đến từ Long-An (TĐ335/ĐP), còn Tiểu-đoàn tôi bổ sung quân số lên trên 500 người lấy từ các Tiểu-đoàn khác trong Tiểu-khu và thêm Đại-đội 512/Trinh-sát.                                                                           
   Xác Việt cộng không ai chôn nên đã bốc mùi, xác lính chôn tạm và phủ lên một lớp Poncho, thương binh còn kẹt lại 50 người vừa nặng vừa nhẹ, vì Phòng Không VC dày đặc nên Trực-thăng không vào được để tải thương, hơn nữa phải ưu tiên cho mặt trận Phước-Long. LĐ7/BĐQ sau thời gian quầng thảo với địch quân, tổn thất đáng kể, nên được lịnh triệt thoái khỏi Hoài-Đức. Như thế, Tiểu-đoàn 344/ĐP của tôi còn lại hơn 200 người (kể cả thương binh) bị Sư-đoàn 6 VC, thêm Trung-đoàn 812 Sông Mao và 4 Tiểu-đoàn Đặc-công 18, 19, 20 và 200C (Tài-liệu của Dr. Nguyễn-đức-Phương, tác giả "Chiến-tranh Việt-Nam toàn tập"). Quân số VC từ 6 đến 8 ngàn người, bao vây tấn công ngày đêm. Thượng cấp cho tôi toàn quyền quyết định: Tử thủ hay di tản chiến-thuật. Tôi đã cho thăm dò nhiều con đường rút nhưng không thể thực hiện được, nếu lính tráng đi phải bỏ lại vợ con ! và còn thương binh nữa ?- Chúng tôi quyết định Tử thủ !.                                                                       
   Tôi liên lạc vô tuyến với 2 Đại-đội đang hoạt động bên ngoài thì, Đại-đội 1/344 do Đại-úy Trương-Kiêm làm Đại-đội trưởng đã tan hàng và mất hẳn liên lạc. Đại-đội 2/344 của Trung-úy Thời quân số còn được 36 người. Đại-đội 512/Trinh-sát của Trung-úy Đường vì áp lực địch quá mạnh phải lui lại khu vực chợ cách BCH/Chi-khu không xa. Trưa cùng ngày, Trung-úy Đường tử thương và Trinh-sát tan hàng ngay sau đó. Trước tình hình nầy, không riêng gì con bé Hạ mà các chị vợ và con của lính cũng được cấp phát súng đạn. Vợ Trung-sĩ Hảo là cô Đở (bà Mụ ở nông thôn) trở thành y tá của Tiểu-đoàn, hai tay chị lúc nào cũng dính đầy máu. Một thương binh cánh tay trái chưa đứt lìa hẳn, đã bốc mùi thối phải cắt bỏ, không có thuốc tê, với lưỡi dao cạo Chị cố lấy bình tỉnh cắt bỏ cánh tay, anh thương binh cắn răng với hai hàng nước mắt chảy liên tục vì quá đau đớn ! Tôi cố gắng an ủi từng người, anh tài xế của tôi bị gãy chân trái vì đạn pháo, thấy tôi anh ấy khóc, tôi cố an ủi: "Vết thương của anh không đến nỗi phải cưa chân đâu !", anh ấy nói trong nước mắt: " Không phải em sợ bị cưa chân, nếu được tải thương coi như chắc chắn được sống, thấy ông thầy ở lại...em thương cho ông thầy quá !". Anh ấy nghẹn lời, anh có biết đâu tôi còn nghẹn hơn anh ấy nữa ! Tình huynh đệ chi binh như thế đấy...bản thân không lo mà chỉ lo cho đồng đội. (sau ngày tôi ra tù, anh ấy biết tin, từ SàiGòn với đôi nạn gỗ và một chân...anh ấy xuống Bà-rịa thăm tôi). 
   Con bé Hạ đầu quấn khăn tang cho anh nó bằng cuộn băng vãi trắng, mặc áo trận, vai mang M16 người nó trông cứng cỏi như người lính thực thụ, mới 16 tuổi mà trông nó già dặn như người 30, 40 tuổi. Một Tiểu-đội "Nữ binh" được thành lập, đặc dưới quyền điều động và chỉ huy của Thượng-sĩ Hường, Tiểu-đội trưởng là vợ Trung-sĩ Man Ngui (người Thượng). Các toán thám sát được tung ra ngoài, nay trở về, họ cho biết, VC đông như kiến cỏ, phòng thủ dày đặc. Tiểu-đoàn không thể rút ra ngoài được, nếu mở đường máu, may lắm là sống sót không tới 1/3. 
Hôm đó VC không tấn công ban ngày mà chỉ pháo, tôi đoán đêm nay bọn chúng sẽ làm thịt chúng tôi...các thương binh còn cầm súng được đều phải ra tuyến ngoài. Các Sĩ-quan rời khỏi vị trí chỉ huy ra ngoài chiến hào cùng anh em chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, kể cả tôi. Nhưng đêm đó vẫn yên tỉnh đến lạ lùng và nghẹt thở.
   Đúng 09:00 giờ sáng ngày 04 tháng 01 năm 1975 tất cả hỏa lực đủ loại súng bọn VC bắn như vãi đậu, tiếng hò hét xung phong man rợ. Anh em chúng tôi mắt mở trừng trừng, tay để sẳn cò súng, nghiến răng...chờ giờ phút sau cùng của đời mình sẽ đến ! Bọn VC vẫn chưa xung phong, Đại-úy Đinh-quang-Chính trưởng ban 3 Tiểu-đoàn quay lại tôi la lớn: "Trung-hiếu (ám danh đàm thoại của tôi)...khoan cho lịnh bắn, tụi nó dụ cho mình hết đạn đó !", tôi gật đầu đáp nhận, không riêng gì Đại-úy Chính, mà tất cả hình như cũng hiểu như vậy. Vài lần hò hét xung phong không có kết quả, bọn Việt cộng nổi điên xung phong thật...
   Chiến-trường bây giờ là địa ngục, là máu, là thịt xương vung vãi khắp nơi...lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy được địa ngục ! Trước đó chừng 20 phút, tôi nghe một giọng nói lạ trong máy truyền tin, bảo tôi cho biết tọa độ chính xác để Pháo binh yểm trợ. Việt cộng không thể gạt được tôi, tôi chửi trong máy: "Tiên sư các anh, muốn bắn thì...bắn đi, cái Quận to tổ bố không thấy sao mà còn xin tọa độ !", và sau đó không lâu, tiếng nói lạ lại vang lên trong máy AN/PRC.25: "yêu cầu Bạch-Vân cho biết tọa độ chính xác giữa Ta và Địch !" (Bạch-Vân là danh hiệu Truyền-tin Tiểu-đoàn), Tôi đáp: " Tao ở bên trong, tụi bây ở bên ngoài...muốn chơi bao nhiêu thì...cứ chơi !" Nói xong tôi cúp máy. Bọn kiểm thính của tụi nó biết cả danh hiệu Truyền tin Tiểu-đoàn, biết thì biết, tôi thầm nghĩ...giờ phút nầy bọn chúng muốn biết tên cha mẹ của tôi...tôi cũng cho luôn !
   Tôi vừa buông ống liên hợp xuống thì...tiếng kèn, tiếng hô xung phong vang dội xen kẻ với tiếng đạn pháo chát chúa, long trời lở đất. Đạn Đại- bác tung cát bụi mịt mù... hình như cả ngàn quả nổ cùng một lượt, nhưng không có quả nào lọt vào bên trong mà nổ phía bên ngoài hàng rào, nổ ngay trên tuyến của Việt cộng ! Thân xác bọn "sanh Bắc tử Nam" bị đạn pháo hất tung lên từng đợt...từng đợt. Đạn pháo nổ liên tục vào bọn cộng phỉ nghe ghê rợn hơn cả "Lệnh xé xác" trong truyện kiếm hiệp của Kim-Dung. Hơn trăm mạng người còn sống sót của chúng tôi ngẫn ngơ quên cả bóp cò súng, giương đôi mắt nhìn một màn xi-nê sống động và hay hơn cả những phim chiến tranh mà chúng tôi đã từng xem trước đây. Vì đây là cảnh thật chứ không phải trên màn ảnh, tiếng đạn Đại bác vẫn nổ liên tục trên phòng tuyến địch cho đến trưa. Xen lẫn trong tiếng nổ của đạn pháo là tiếng máy bay phản lực nghe càng lúc...càng rõ. Trên bầu trời những chiếc F5 quen thuộc xuất hiện như những Thiên Thần, tiếng đạn Đại bác vừa ngưng là những chiếc F5 chúi xuống thả từng cặp bomb Napal lên đầu giặc biến Võ-Đắt thành biển lửa. Quân tử thủ chúng tôi như tỉnh cơn mê...há hốc mồm kinh ngạc, bổng vỡ òa trong tiến reo hò ầm ỉ: "Quân tiếp viện đến...! Quân tiếp viện đến !". Đại-úy Chính trưởng ban 3 Tiểu-đoàn chạy lại phía tôi la lớn: "Sư-đoàn 18 vào tới rồi...mình sống rồi Trung-hiếu ơi !".  Tôi, Đại-úy Chính và các binh sĩ hình như tất cả chúng tôi đều ứa nước mắt ! những giọt nước mắt sung sướng lăn dài trên gò má, rồi chảy xuống chiến bào đã khô cứng vì bụi cát, đất và máu của đồng đội bao ngày. Võ-Đắt đã được hồi sinh sau 33 ngày sống trong địa ngục trần gian !!!
   Tôi đi một vòng quanh phòng tuyến, đứng nghiêm chào trên mỗi xác của đồng đội. Ôm vai hoặc nắm chặc tay những đồng đội còn sống hay bị thương để nghe niềm xúc cảm dâng trào trong tim thay cho muôn vạn lời nói ! Khi đi ngang qua một lô-cốt, thấy bé Hạ ngồi khóc, tôi hoảng hốt hỏi cô bé có bị thương không ? nó lắc đầu, rồi đưa tay chỉ xuống hầm. Tôi chui vào, nhìn thấy xác của hai chị Vợ lính nằm kề bên nhau, tay vẫn còn giữ chặc hai khẩu súng. Nhìn qua lổ châu mai, khoảng cách gần, xác của 3 tên Việt cộng bị bắn vỡ toang đầu. Nhìn lại thân xác hai chị nằm đó, như người đang ngủ say ! Tôi đứng nghiêm chào và thầm nói: "Thưa các Chị, xin các Chị hãy yên giấc ngàn thu, Tổ quốc muôn đời mãi ghi ơn các Chị ! Trong trận chiến khốc liệt để bảo vệ sự an nguy, tự do, hạnh phúc cho người dân miền Nam nói chung, đồng bào Hoài-Đức, Bình-Tuy nói riêng...sự hy sinh của các Chị sẽ được ghi vào sử sách của những người lính không có số quân, và không có cả luôn 12 tháng lương tử tuất. Các Chị đã nối bước tiền nhân, không hổ danh con cháu Bà Trưng, Bà Triệu. Tôi xin đại diện cho những người còn sống hôm nay, kính cẩn nghiêng mình trước vong linh của những Anh-Hùng Liệt-Nữ vô danh, xin ngàn thu vĩnh biệt"! Nước mắt của tôi tự dưng trào ra...Tôi bước ra khỏi hầm, với gương mặt trầm buồn, nhưng tâm tư chất chứa niềm kiêu hãnh cho một thế hệ, bất kỳ Nam hay Nữ, đã và đang cống hiến cuộc đời, và thân xác cho cuộc chiến chính nghĩa, bảo vệ sự an bình, tự do cho đất nước VNCH. Tôi ngước mắt lên nhìn trời, cảm ơn Thượng Đế đã cho tôi và các anh em binh-sĩ được sống, chiến đấu, và biết thế nào về hai chử anh-hùng trong chiến trận...và tôi, may mắn được chiến đấu bên cạnh những anh-hùng đó, những chiến-sĩ Anh-Hùng Vô Danh mang tên "Vợ Lính" !  LPO."
                                              --------------------------------------
   Trong những lần trò chuyện với anh qua email, được anh cho biết có mở riêng một trang blog để giới thiệu về những bài anh viết. Tôi đọc được 4 Hồi-Ký "Một Thời Lửa Đạn", 4 Tùy-Bút Chiến-Trường, 17 bài của Bạn bè viết cho anh và 30 bài Thơ của Anh. Có thể là rất nhỏ bé, nhưng đã trang trãi một chặng đường dài cuộc đời của "Người Lính Địa-Phương Quân Lê Phi Ô". Từ quãng đời thơ mộng lúc còn đi học, cho đến ngày cống hiến đời trai vào nghiệp chiến chinh để bảo vệ Tự-Do, Dân-Chủ, Ấm No, Hạnh-Phúc cho miền Nam Việt-Nam nói chung, và cho vùng đất thân yêu Bình-Tuy nói riêng. Và bây giờ lưu lạc trên xứ người, người lính ĐPQ Lê Phi Ô vẫn còn trăng trở với nỗi đau của Quê Hương đang trầm luân dưới chế độ độc tài Đảng trị CSVN. Chắc là anh cũng như bao người lính VNCH tự đặt cho mình một câu hỏi: Ta làm gì với quãng đời còn lại cho Quê Hương ?!
   Người viết xin cám ơn Người Lính ĐPQ: LÊ PHI Ô, từ những bài của anh tôi tìm thấy một phần đời của một thời cầm súng. Tôi trở thành người dân "Đất Biển Tình Nồng" Bình-Tuy rất muộn, nhưng tại Quê Hương thứ 3 nầy, tôi tìm thấy tình thương yêu rất mặn nồng, của người dân Bình-Tuy giành cho người lính ĐPQ trong chiến đấu, hoặc bị tù sau khi Nước mất. Và, tôi đã có câu trả lời: "Tại sao những người Lính ĐPQ lại đổ xương máu để bảo vệ vùng đất thương yêu nầy đến giây phút cuối cùng, trong đó có người Lính ĐPQ Lê phi Ô".
   
                                                                NGƯỜI XỨ NGHỆ

   (Bài đã đăng trong Nhật Báo SAIGON NHỎ nam Calif. trang Chiến-Hữu số 1463 ngày 13 tháng 05 năm 2013, Nguyệt San DIỀU HÂU Florida số tháng 07 năm 2013 và Nguyệt-San KBC) 
   Tác giả: Người xứ Nghệ (Hoa-Nguyễn)
              

Friday, February 26, 2016

Video Tuyệt phẩm Tình Mẫu Tử: “MẸ” - Nguyễn Đình Toàn


Thân kính gửi các Chị Văn Thi nghệ sĩ = các bà mẹ đáng quý.
Thân tặng các Chị Văn Hà, Mạc Phương Đình
Và tất cả các bà MẸ thân  quý của thế gian này
 Video ca nhạc "MẸ".
Ai trong chúng ta cũng có một bà Mẹ và điều đó đồng nghĩa với hạnh phúc. Mẹ là tiếng nói đầu tiên trên môi trẻ thơ  khi tâm hồn của bé chỉ là tờ giấy trắng trinh nguyên .  Thiêng liêng quá phải không quý vi?
Vâng, bởi chính mẹ là người đã cho ta sự sống, cho ta hình hài, xương thịt và máu huyết. Ngày nào trái tim ta còn đập, ngày ấy ta còn mang sự xẻ chia cốt nhục mà Mẹ đã ban cho ta.
Trong giấc mơ tuổi thơ, tiếng ru của mẹ là tiếng êm ái nhất trong cuộc đời:
Ngọt ngào tiếng mẹ bên tai
Vỗ về giấc ngủ đêm dài lạnh sương”
Công lao nuôi dưỡng con của Mẹ dài theo năm tháng cho đến khi con trưởng thành, thật là mênh mông biển lớn:
“Lên cao mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ”
Tình yêu nào cũng có thể phôi phai, chỉ có tình mẹ là sắt son vĩnh cửu. Hôm nay chúng tôi xin kính mời quý vị đi vào tình yêu thương cao quý ấy qua nhạc phẩm MẸ, sáng tác của Nhà Văn Nguyễn Đình Toàn & Nhạc Sĩ Nguyễn Linh Diệu. 
 Nhạc phẩm này được trình bày bằng hình ảnh Super HD 1080P pha chút kỹ thuật 3D, và được thể hiện qua ba giọng hát truyền cảm Hương Lan, Hương Giang và Hoàng Nhung. Cuối Slideshow, có thêm 55 seconds Bonus guitar Vô Thường nhạc phẩm “Lòng Mẹ” của Y Vân.

Xin hãy nói yêu thương Mẹ khi Mẹ còn sống, đừng để khi Mẹ qua đời rồi mới nhỏ vài giọt nước mắt, thì có nghĩa gì nữa đâu.


Trần Ngọc.

Sai lầm khi tích trữ thịt trong tủ lạnh đang "giết" cả nhà bạn

(Xã hội) - Những sai lầm khi tích trữ thịt trong tủ lạnh gây hại cho sức khỏe của gia đình bạn ngoài sức tưởng tượng. 

 NÊN chú trọng như sau:

1. Không trữ đông thịt tươi trong ngăn lạnh quá lâu
Khi bảo quản thịt, chúng ta nên để trong ngăn đá của tủ lạnh sẽ giữ được dài ngày hơn nhưng không nên quá 1 tuần. Còn nếu để trong ngăn lạnh thì chỉ nên 2 ngày mà thôi. Với thịt đã qua chế biến thì có thể để được 3 – 5 ngày. Thịt không bảo quản trong ngăn đá mà để ở ngăn lạnh quá lâu cũng sẽ phát sinh các vi khuẩn gây hại, ăn mòn dinh dưỡng trong thịt và làm mất hết hương vị của thịt.

2. Nên rửa thịt tươi trước khi đông đá
Rất nhiều người khi mang thịt về thì nhét tất cả vào túi rồi cất trong ngăn đá. Cách làm này sẽ làm mất hết dinh dưỡng và mùi vị của thịt. Do đó, bạn cần đông đá thịt đúng cách.
Trước hết hãy rửa sạch thịt, sau đó thấm khô rồi đựng trong túi đựng thực phẩm hoặc hộp bảo quản thực phẩm riêng và nên ghi ngày tháng lên rồi mới đông đá. Vì không rửa thịt,những chất bẩn, vi khuẩn cùng bám vào trong thịt sẽ không tốt.
Sai lầm                                                           khi tích trữ                                                           thịt trong tủ                                                           lạnh đang
 
3. Không nên làm đông lạnh lại thịt sau khi dùng không hết
Nhiều người có suy nghĩ sau khi thịt rã đông ăn không hết lại đưa vào tủ đóng đá tiếp. Tuy nhiên, cách làm này đã vô tình làm cho quá trình vi khuẩn tăng lên gấp nhiều lần. Bất kỳ tế bào nào thoát khỏi quá trình bị phá vỡ khi thực phẩm được đông lạnh lần đầu đều đứng trước nguy cơ tiếp tục bị phá vỡ lần nữa. Vì thế, chúng ta không đông lạnh lại thực phẩm sau khi đã rã đông và ăn thừa.

4. Vặn nhiệt độ không phù hợp trong tủ lạnh
Nhiều người có thói quen "tiết kiệm điện" nên thường điều chỉnh nhiệt độ trong tủ lạnh quá cao. Tuy nhiên điều này rất dễ khiến thực phẩm hỏng, kể cả thực phẩm trong ngăn đá. Nhiệt độ trong ngăn mát tủ lạnh cần đảm bảo luôn ở mức dưới 4 độ C, còn ngăn đá tốt nhất là dưới -18 độ C. Nhiệt độ trên 4 độ C sẽ làm vi khuẩn sinh sôi rất nhanh chóng.

5. Phải vệ sinh bàn tay trước khi rửa thực phẩm 
Bàn tay là nơi tiếp xúc trực tiếp với các loại thực phẩm nên cũng chứa nhiều vi khuẩn nhất. Nếu bạn rửa thực phẩm mà chưa rửa tay, vi khuẩn đã được truyền sang các nguyên liệu khác, gây hiện tượng lây nhiễm chéo. 
Việc rửa tay là bước quan trọng nhất để phòng ngừa ngộ độc thực phẩm. Vì vậy, bạn nên tạo thói quen rửa tay bằng xà phòng và nước ấm khoảng 20 giây trước khi chuẩn bị hoặc chế biến thực phẩm. 

Theo các chuyên gia dinh dưỡng, nguyên tắc cơ bản khi bảo quản thực phẩm chín trong tủ lạnh chỉ từ 1- 2 ngày. Tuy nhiên, tùy thuộc vào đặc tính của từng loại thực phẩm mà chúng ta bảo quản theo các cách khác nhau với thời gian phù hợp.
Nếu để quá lâu, thịt trong tủ lạnh cũng không còn tốt cho sức khỏe. Các phân tử protein sẽ bị biến tính, tự hoại tử. Vì thế, không có nghĩa là thực phẩm cứ để trong tủ lạnh sẽ an toàn 100%.

Thịt tươi để trong tủ lạnh thích hợp nhất chỉ nên khoảng 3 ngày, nên cắt nhỏ thành miếng đủ dùng, sau đó lúc cần lấy ra rã đông, không nên để cả tảng thịt to, rã đông rồi để tủ lại sẽ nhanh hỏng.
Đối với trẻ nhỏ, nên cho trẻ ăn thịt tươi, không nên dùng thịt tích trữ lâu vì đường tiêu hóa của trẻ rất yếu, dễ bị ảnh hưởng hơn so với người lớn.
Sưu tầm

Thoáng đầy vơi


Gọi trăng vào mở ngăn ký ức
cho nhẹ lòng buồn chốn viễn phương
Sau lưng bóng tối như đáy vực
Trước mặt là đêm lạnh canh trường.
Thoáng đầy vơi gửi theo cánh nhạn
Treo giữa đường mây những nỗi niềm
Vó câu thiên lý qua năm tháng
cuối đời chưa thấy lối hạo nhiên.
Hãy nhắn giùm tôi những lời yêu
Tiếng buồn ngân vọng lúc quạnh hiu
Hồi chuông cổ tự mùa viên tịch
quyện tiếng lòng rơi giữa muôn chiều.
Xa quá một thời xuân xanh mộng!
Nhớ lắm sương mềm hôn tóc mây
Làm sao tâm tịnh khi tình động
nên cứ miên man nỗi vơi, đầy!
Khơi nhúm tro tàn hong ký ức
Sưởi ấm tình quê chốn biển trời
Trả Em phố núi mờ nhân ảnh
Giữ lại nơi này một bóng...Tôi!
HUY VĂN